Phong tục cưới hỏi truyền thống của người Việt Nam bao gồm những thủ tục rất phức tạp. Tuy nhiên theo thời gian thì những thủ tục cưới hỏi đó đã được lược bớt. Hãy cùng Phong Thủy Lộc Tài tìm hiểu các thủ tục cưới hỏi trong phong tục cưới hỏi truyền thống của người Việt Nam trong bài viết dưới đây nhé!
I. Các thủ tục cưới hỏi đầy đủ trong phong tục cưới hỏi truyền thống
1. Thủ tục cưới hỏi theo phong tục truyền thống
Từ xưa, cha mẹ đã có vai trò rất quan trọng trong việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Sau khi nhờ được người mối lái, tìm được người vừa ý để dựng vợ gả chồng cho con, gia đình hai bên trai gái sẽ quyết định tổ chức hôn lễ cho con. Người ta thường phải chuẩn bị sáu lễ cho việc cưới hỏi xin, nhưng trên thực tế, phong tục cưới hỏi của người Việt thường thu gọn vào ba lễ: lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Đối với những gia đình nghèo, có khi còn bỏ cả lễ chạm ngõ.
2. Thủ tục Dạm ngõ (Chạm ngõ)
Theo phong tục đám cưới truyền thống, sau khi hai nhà đã thoả thuận việc cưới gả, người mối sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đưa người chủ hôn hoặc cha mẹ nhà trai và chú rể đem lễ vật trầu cau đến nhà gái xin đính ước.
Khi đã xác định được ngày tốt (tức là ngày âm dương tương hợp thì vợ chồng sau này mới gặp diều tốt lành), nhà trai sắm một lễ mọn cúng tổ tiên để báo về công việc hệ trọng này. Nhà nghèo chỉ có bát nước, nén hương. Nhà khá giả thì làm gà, thổi xôi. Sau đó nhà trai sửa một lễ mang sang nhà gái gồm: một cơi trầu cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên, mứt sen, trà lạng đựng trong quả sơn son thiếp vàng.
Đoàn người đi sang nhà gái gồm bà mối, bà mẹ, bà dì, bà cô của chú rể. Các cô gái chưa chồng ở trong họ thường đội các mâm quả hoặc bưng khay trầu đi trước, sau đó là nam giới và chú rể. Lễ được chia làm hai phần. Phần nhiều được đặt lên bàn thờ và cha của cô dâu sẽ khấn vái tổ tiên về ngày mà con cháu họ sắp lập gia đình. Phần còn lại sẽ đưa về nhà ông cậu của cô gái để lễ gia tiên bên ngoại. Trước khi nhà trai về, nhà gái thường sửa một phần lễ để biếu lại nhà trai, gọi là lại quả.
>>> Tìm hiểu thêm: Hướng dẫn cách chọn ngày cưới đẹp tháng 7
3. Lễ ăn hỏi trong lễ cưới truyền thống Việt Nam
Đây là lễ trọng thể, mang tính chất chính thức trước khi cưới và phải chọn ngày tốt. Sáng sớm nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Sau đó người mối đưa cha mẹ nhà trai, chú rể và những người họ hàng thân thuộc đem lễ vật trầu cau, chè mứt, bánh cốm hay bánh su xuê đến nhà gái để nhà gái làm lễ cáo gia tiên. Sau đó nhà gái đem các vật phẩm này chia phần cho các bạn hữu, họ hàng thân thuộc. Sau lễ hỏi là việc báo hỷ và chia trầu. Mỗi lễ đem chia gồm một lá trầu, một quả cau, chục hạt mứt sen, một ấm trà, bánh cốm. Những thứ này được phong trong giấy hồng, gấp thành hình hộp vuông, mỗi chiều khoảng 5 cm – 6 cm, cao độ 2 cm. Trên hộp vuông, người ta dùng giấy bạc trang kim cắt hình chữ hỷ dán lên trên.Ở miền Nam thường có tục nhà trai trình trước hai họ những món sính lễ quan trọng như hoa tai, nhẫn … ngay trong lễ ăn hỏi để được nhà gái chấp nhận và ưng thuận sự hứa hôn.
Theo phong tục cưới hỏi truyền thống thì trong lễ ăn hỏi, hai họ cũng xem ngày và định ngày cưới cho đôi trẻ. Đây là một ngày hệ trọng của đời người nên phải xem ngày giờ cẩn thận. Ngày xưa, người ta chọn ngày cưới là ngày bất tương, thiên hỷ, thiên đức, nguyệt đức.. Giờ cưới luôn luôn phải là giờ Hoàng đạo. Sau lễ hỏi, thông qua bà mối, nhà trai sẽ biết nhà gái thách những gì.
4. Lễ xin dâu
Trước giờ đón dâu, nhà trai có mấy người mang một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ mà đoàn đón dâu sẽ đến để nhà gái chuẩn bị đón tiếp. Cơi trầu be rượu này, nhà gái đệ lên bàn thờ cáo tổ tiên, rồi hạ xuống đón quan khách đưa dâu. Đại diện đưa lễ này của nhà trai có thể là mẹ chồng hoặc một người cô, thím, trong họ.
Khi đoàn đón dâu đến, họ nhà gái mời nhà trai vào nhà, nhà trai cho đặt đồ lễ lên bàn thờ. Các phù rể bưng lễ vật đứng dàn hàng ngang trước mặt các phù dâu và trao những mâm quả hoặc quả tráp lễ vật. Các cô này sẽ đem lễ vật đặt lên bàn thờ có thứ tự ở trước bàn thờ gia tiên.
Lúc này, nhà gái kiểm điểm lại đồ thách cưới (một phần đã được đưa đến từ mấy hôm trước). Đồ lễ đủ, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên. Hương thắp phải do bố (hoặc anh trai, em trai) cô dâu thắp. Nếu là anh trai hay em trai cô dâu thắp, nhà trai phải tặng một món tiền gọi là tiền thắp hương.
Văn lễ theo phong tục cưới hỏi truyền thống:
Hôm nay, ngày…., tháng…., năm…., giờ…. Gia chủ là người thôn…., xã…., huyện…., tỉnh (hoặc ngụ tại số nhà …phường….quận…. thành phố….) nước Việt Nam. Có con trai (hoặc con gái) tên là…. kết duyên cùng ….con gái (hoặc con trai) của ông bà…. người thôn …. Xã….huyện….tỉnh….
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật gồm: hương đăng trầu quả… gọi là theo phong tục lễ nghi thành hôn và hợp cẩn.
Trước linh tọa, Ngũ tự gia thần chư tôn linh vị.
Trước linh vị liệt gia tiên chư chân linh, xin kính cẩn khấn cầu:
Phúc tổ di lai, sinh trai có vợ (hoặc nhà gái thì khấn: “sinh gái gả chồng”).
Lễ mọn kính dâng, duyên lành gặp gỡ giai lão trăm năm, vững bền hai họ.
Nghi thất nghi gia, có con có của.
Cầm sắt giao hoà, trông nhờ phúc tổ.
Cẩn cáo
5. Thủ tục rước dâu trong phong tục cưới hỏi
Ngày xưa, người ta thường rước dâu vào ban đêm theo đúng giờ hoàng đạo đã chọn. Nhà trai thường nhờ một cụ già hiền lành, vợ chồng song toàn, đông con nhiều cháu, cầm một bó hương hay một đỉnh trầm đi trước, tục gọi là Tơ hồng. Kế đến là người dẫn lễ vật như mâm cau, bánh mứt, lợn, rượu… Chú rể khăn áo chỉnh tề cùng với những người trong họ đi rước dâu. Tục lệ của nhiều địa phương là chỉ có bố chồng đi đón.
Khi đoàn đón râu đến ngõ nhà gái, cụ già cầm hương cùng đi với một người đội lễ, thường là một quả đựng trầu cau và rượu vào trước. Mâm lễ ấy được đặt lên bàn thờ, cụ già thắp hương vái, nhà gái vái trả lễ rồi một vị đứng đầu họ nhà gái, cùng ra đón đoàn xin dâu vào. Ngay sau đó, cô dâu cùng chú rể đến lạy trước bàn thờ gia tiên, xin tổ tiên đồng ý cho cô dâu cùng chú rể đem hộp trầu đi mời mọi người trong họ. Trước khi về nhà chồng, cô dâu đi lạy ông bà, cha mẹ mình. Thông thường lúc đó, cha mẹ cô dâu cho một vật gì đó như hoa tai, nhẫn cưới hoặc ít quan tiền (nếu là nhà giàu) hoặc cái quạt, gương soi (nếu là nhà nghèo) để làm kỷ niệm. Sau đó dâu rể đi lễ nhà thờ tổ họ nội và họ ngoại của cô dâu.
Tiếp đó chủ hôn nhà trai nói với chủ hôn nhà gái để cô dâu chú rể mừng tuổi ông bà, cha mẹ vợ. Ngày xưa, chú rể phải làm lễ gồm bốn lễ ba vái, nhưng sau theo quy định của triều Nguyễn chỉ lễ ba vái. Tục lệ này sau được bãi bỏ ở nhiều nơi. Sau đó, người chủ hôn đích thân hoặc uỷ thác cho một vị lớn tuổi khác đi chào tất cả họ hàng có mặt trong đám cưới. Lúc này ông bà, cha mẹ vợ sẽ có vài lời bảo ban dạy dỗ đôi vợ chồng trẻ và ban cho chú rể một đồ vật gì quý giá. Các vị trong họ như chú bác cũng có tiền mừng cho đôi trẻ rồi mới bước vào tiệc cưới.
Khi tiệc xong, chủ hôn nhà trai sẽ nói với chủ hôn nhà gái là đã đến giờ tốt, xin phép được rước dâu. Sau đó đoàn đón dâu lên đường về nhà trai. Trước cửa nhà trai thường đặt một lò than hoa hồng để cô dâu bước qua đó để đốt vía (những người vía dữ đã gặp trên đường). Nhiều nơi ở quê còn có tục chăng dây. Khi gặp dây chăng, cụ già đi đầu đoàn đón dâu cho trẻ con mấy đồng kẽm để chúng gỡ dây đi vì sợ gặp phải chuyện “giữa đường đứt gánh”. Theo sau cô dâu là những người đội những hòm đựng đồ dùng riêng của cô dâu.
Ngày xưa, còn tục đốt pháo nên đến ngõ nhà trai, pháo nổ ròn rã. Người ta thường chọn loại pháo tốt, hơ khô, buộc từng hai bánh một với nhau để nổ cho giòn, tránh pháo tịt vì sợ điều không may. Khi về đến nhà trai, ở ngoài cửa đã có sẵn người cầm cơi trầu chực sẵn để đón mời quan khách nhà gái. Lúc này, mẹ chồng cầm bình vôi lánh mặt đi chỗ khác để cô dâu bước vào nhà. Có nơi cho rằng, ngày xưa bình vôi là biểu hiện của tài sản, nên không bao giờ để bình vôi sứt miệng, thường quệt thêm vôi lên miệng bình vì tin rằng bình vôi càng dày, của cải trong nhà càng nhiều. Mẹ chồng cầm bình đi vì muôn nắm quyền hành trong nhà, không cho con dâu được quyền điều hành trong nhà, ở các địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh, mẹ chồng có tục ra cất nón cho cô dâu. Cô dâu vào đến cổng, múc nước rửa mặt đựng trong một cái nồi đồng. Sau đó mẹ chồng dắt con dâu vào nhà, đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ rồi lễ gia tiên: bốn lạy ba vái.
Lễ xong, mẹ chồng cùng cô dâu bước vào buồng. Trong buồng có sẵn một đôi chiếu mới trải úp vào nhau. Người trải chiếu phải là người ăn nên làm ra, con đàn cháu đông. Nếu mẹ chồng đủ điều kiện như trên thì bà sẽ trải chiếu, dọn giường cho cô dâu chú rể. Nghỉ ngơi một lát, sau đó cô dâu chú rể vào lạy gia tiên, đi lễ các nhà thờ của đôi bên cha mẹ chồng và làm lễ tơ hồng. Xong xuôi, cô dâu chú rể vào mừng tuổi ông bà, cha mẹ chồng, cầm hộp trầu đi mời khắp trong họ.
Nghi lễ đưa dâu đến đây là xong. Có gia đình nhà trai mời nhũng người nhà gái đi đưa dâu ở lại ăn uống rồi mới ra về. Có khi nhà trai phải tiễn đưa họ nhà gái ra về đến tận nhà gái, những người này nói cho bố mẹ nhà gái biết việc đưa dâu đã chu đáo rồi mới giải tán. Nếu trong số họ có ai tạt ngang bỏ về trước thì sẽ cho là điềm không hay, là không đi đến nơi về đến chốn. Khi nhà trai đưa họ hàng nhà gái về xong xuôi rồi thì mở tiệc ăn mừng.
6. Dâu rể làm lễ gia tiên theo phong tục cưới hỏi truyền thống
Mọi việc trong gia đình từ việc hiếu đến việc hỉ, từ việc vui đến việc buồn, con cháu trong nhà đều phải cúng cáo gia tiên. Trong ngày lễ thành hôn cho con cháu, ngoài gia trưởng phải khấn vái tổ tiên thì cô dâu chú rể cũng phải cúng lễ tổ tiên. Trước khi sang nhà gái đón dâu, chú rể phải làm lễ ở nhà mình. Khi sang nhà gái đón dâu, cả cô dâu và chú rể lại phải xin phép hai họ cho cúng lễ tổ tiên nhà vợ tại chính nhà bố mẹ vợ, và cả tại nhà thờ họ bên vợ (nếu có). Về phía cô dâu, khi về nhà chồng, việc đầu tiên là phải lễ trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng. Sau đó, họ nhà chồng đưa cô dâu đi lễ nhà thờ trong hai họ nội ngoại nhà chồng. Việc làm lễ trước bàn thờ hai họ là để cô dâu chú rể trình diện với tổ tiên, và là dịp tổ tiên nhận mặt chàng rể, cô dâu.
7. Lễ tơ hồng trong đám cưới Việt Nam
Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là có ông Nguyệt Lão định trước, cho nên phải tạ ơn ông ấy và cầu ông phù hộ được sống với nhau trọn đời. Vì thế, sau khi đón dâu về, gia đình chú rể bày hương án ra sân, bày lễ gồm xôi, gà, trầu, rượu làm lễ tế Tơ hồng. Chủ hôn vào lễ trước, rồi hai vợ chồng vào lễ sau. Văn tế Tơ hồng mỗi nơi mỗi khác, nhưng nội dung chính là ca tụng công đức ông Tơ bà Nguyệt xe mối duyên lành cho đôi trẻ và mong ông bà phù hộ cho cô dâu chú rể ăn ở với nhau trọn tình nghĩa đến đầu bạc răng long, sinh được con đàn cháu đống.
Phong tục này không phổ biến, chỉ có ở một số địa phương.
8. Lễ hợp cẩn trong phong tục đám cưới truyền thống
Khi cô dâu chú rể vào phòng, ông cụ cầm hương dẫn đoàn đón dâu của nhà trai trải chiếu cho cô dâu chú rể. Chiếu phải trải phẳng, kiêng trải lệch. Sau đó cụ rót hai chén rượu mồi cô dâu chú rể uống, rồi ý tứ lui ra ngoài khép cửa buồng lại. Cô dâu chú rể sẽ ăn cùng nhau bữa cơm đầu tiên.
Tối hôm đó, khi nhập phòng, người chồng lấy cơi trầu tế Tơ hồng trao một miếng cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa gọi là lễ hợp cẩn.
̣9. Lễ lại mặt
Sáng hôm sau ngày cưới hoặc có khi sau hai ngày, đôi vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Nếu nhà nghèo thì chỉ cần ba lá trầu, ba quả cau, một nậm rượu. Nhà giàu thì có thêm mứt sen, bánh kẹo, lợn quay, xôi gấc,… Lễ này gọi là lễ lại mặt. Lễ xong, nhà gái sẽ đem chia, biếu cho những người thân trong họ. Hôm đó, bố mẹ vợ làm một mâm cơm để dâu rể cùng ăn.
>>> Xem thêm bài viết: Hướng dẫn xem ngày tốt cưới hỏi năm 2022
II. Một vài phong tục cưới hỏi truyền thống khác
1. Cưới chạy tang
Tục này thường được sử dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ bởi luật pháp xưa cấm nhà trai và nhà gái khi có tang, kể từ tang cơ niên (tang một năm) không được làm lễ cưới gả. Vì vậy, hai họ có thể tổ chức cưới chạy tang. Người chết chưa phát tang, chưa khâm liệm thì họ nhà trai mang lễ sang nhà gái xin cưới. Đám cưới được tiến hành khẩn trương trong vòng một hoặc hai ngày. Có thể không cần ngày tốt, nhưng phải là giờ hoàng đạo. Cô dâu về nhà chồng mấy tiếng thì gia đình bắt đầu phát tang và cô dâu sẽ chịu tang. Sau đám cưới chạy tang, cô dâu chú rể không được “quan hệ” với nhau trong vòng 100 ngày.
2. Ở rể
Những gia đình chỉ sinh con gái, cha mẹ thường có ý lựa chọn chàng trai hiền lành, khoẻ mạnh, chăm chỉ và phải là con thứ (vì không có trách nhiệm thờ cúng Tổ tiên) cho ở rể. Nhà gái bắn tin gả con và gây dựng cho chàng rể ấy để nương tựa lúc về già, hương khói lúc nằm xuống. Vì vậy, nhiều khi nhà gái không đòi hỏi chú rể chi phí về đám cưới. Cưới xong, chú rể đến ở nhà vợ và trở thành thành viên chính thức trong gia đình.
3. Tái giá
Theo phong tục, cha mẹ chỉ gả con một lần. Lần sau, cha mẹ sẽ không tham gia. Có hai trường hợp người phụ nữ tái giá: chồng chết hoặc do ly hôn.
Khi hai vợ chồng chưa có con với nhau thì là do “trai chê trai bỏ, gái chê gái đền”. Nếu “gái chê”, nhà trai thường bắt nhà gái phải đền số tiền gấp hai ba lần nhà trai bỏ ra để tổ chức đám cưới, sêu tết… Nếu vợ chồng đã có con mà bỏ nhau thì con và mọi thứ của cải đều thuộc về người chồng, trừ đồ nữ trang nhà gái sắm cho cô dâu. Người con gọi người mẹ bị cha bỏ là “xuất mẫu”. Nếu sau này đôi vợ chồng đã ly hôn lại làm lành với nhau thì không gọi là tái giá, nhưng trước khi trở về sống chung phải làm lễ tạ gia tiên nhà chồng và cha mẹ chồng.
Nếu chồng chết, phải chờ ba năm đoạn tang, người phụ nữ mới được tái giá. Người mẹ goá lấy chồng khác gọi là “goá mẫu”. Trước khi tái giá, người phụ nữ phải lo liệu cho người chồng cũ được “mồ yên mả đẹp”, làm lễ tạ chồng cũ, khấn cầu chồng cũ phù hộ. Nếu cha mẹ chồng vẫn còn thì phải đem trầu, rượu đến lễ tạ và xin phép được đi bước nữa. Nếu có con thì nó vẫn thuộc nhà nội, người mẹ muốn mang đi phải xin phép cha mẹ hoặc chú bác của chồng.
>>> Xem thêm: